Hoàn thành hồ sơ di sản tư liệu bảo vật quốc gia Cửu đỉnh

VOV.VN - Cửu đỉnh Huế là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt văn hóa và lịch sử của dân tộc.

Sau 2 năm nghiên cứu và xây dựng hồ sơ di sản tư liệu cho bảo vật quốc gia Cửu đỉnh, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế vừa trình Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xem xét trước khi đệ trình UNESCO công nhận Cửu đỉnh là Di sản tư liệu thế giới.

Cửu đỉnh là 9 đỉnh bằng đồng được khởi công chế tác vào cuối năm 1835 dưới thời vua Minh Mạng, được đặt tại sân Thế Tổ Miếu, Đại Nội Huế. Từ đó đến nay, Cửu đỉnh vẫn tồn tại nguyên ở vị trí này, là bản nguyên gốc và duy nhất, chưa từng sửa chữa.

Điều đặc biệt, Cửu đỉnh gắn liền với thụy hiệu của các vua nhà Nguyễn, được đặt ở vị trí đối diện án thờ các vua bên trong Thế Tổ Miếu. Cửu đỉnh Huế là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, có giá trị cao về mặt văn hóa và lịch sử của dân tộc, chứa đựng những nội dung tư tưởng của một thời đại, tâm tư và ý niệm của con người về đất nước, vũ trụ và thiên nhiên.

Trải qua 200 năm tồn tại, đến nay, Cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu. Ngoài tính biểu trưng cho các vị vua, thể hiện quyền lực của vương triều nhà Nguyễn thì Cửu đỉnh như một bộ “Địa dư chí lược” của Việt Nam đầu thế kỷ XIX được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình với tổng cộng 162 họa tiết chạm nổi tinh xảo. Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông; cũng là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình: Tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9.

Đặc biệt, trên Cửu đỉnh, nếu ở phần Tuyên đỉnh có sông Hồng thì Huyền đỉnh có sông Cửu Long và Nhân đỉnh có sông Hương; Cao đỉnh có cọp trên rừng thì Nhân đỉnh có cá voi dưới biển. Các hình ảnh ở Cửu đỉnh đều biểu hiện những cảnh vật rất thật và gần gũi với dân tộc Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Dương Phước Thu cho biết, tất cả các hình ảnh được đúc nổi trên Cửu đỉnh đều là những đặc trưng vùng miền trải dài từ Bắc chí Nam. “Cửu đỉnh, là đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng, hai là tư tưởng thống nhất trong dân tộc, ba là một tác phẩm Đại Nam Nhất Thống Chí, viết sông núi, sản vật, nhân vật chí bằng hình ảnh. Cửu đỉnh  có tính thống nhất, mang tính độc quyền của một quốc gia, mang tính toàn vẹn của một lãnh thổ quốc gia. Tức là, nói đến cội nguồn của dân tộc Việt Nam là xem trên Cửu đỉnh, người ta sẽ hiểu", nhà nghiên cứu Dương Phước Thu nhấn mạnh.

Trong số 162 họa tiết chạm nổi trên Cửu đỉnh, có tới 90 hình ảnh là về các loài động, thực vật đặc trưng của Việt Nam như: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, cây cối, hoa cỏ, động vật, binh khí, xe thuyền... Hình ảnh biển đảo của nước ta đã được chạm khắc rõ ràng, minh xác trên Cửu đỉnh nhà Nguyễn. Trong 9 đỉnh, có 3 đỉnh to cao nhất và quan trọng nhất có khắc biển đảo nước Việt, gồm: biển Đông ở Cao đỉnh, biển Nam ở Nhân đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh.

Cùng với hàng loạt tài liệu Hán Nôm cổ, những hình ảnh biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh là một nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. TS. Lê Thị An Hòa, Trưởng phòng Nghiên cứu Khoa học Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cho biết, Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên việc tạo khuôn đúc cũng thực hiện thủ công qua việc chọn lựa loại đất sét phù hợp một cách tỉ mỉ. Khuôn đúc Cửu đỉnh là khuôn “độc bản”, sau khi hoàn thành chế tác, các khuôn đúc đều bị phá bỏ để tránh sự sao chép. Quá trình chế tác khuôn đúc được triều đình giám sát chặt chẽ. Từ cách tạo dáng đến các hình chạm nổi trang trí bên ngoài cho thấy tất cả các hoa văn, họa tiết trang trí trên Cửu đỉnh là một thực thể độc lập và duy nhất, không lặp lại ở bất kỳ nơi đâu.

“Qua nghiên cứu các nước đồng văn như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, thì bộ Cửu đỉnh của Thừa Thiên Huế độc bản. Mặc dù đúc đồng thì có nhiều nước có nghệ thuật đúc đồng nhưng riêng bộ Cửu Đỉnh này và các hình ảnh được chạm trổ trên nó, chỉ có duy nhất ở Huế thôi. Xét tất cả các tiêu chí để đạt được tư liệu của thế giới thì bộ Cửu đỉnh này tất cả các tiêu chí đó", TS. Lê Thị An Hòa nói./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

Du khách Việt ngày càng yêu di sản và văn hóa bản địa
Du khách Việt ngày càng yêu di sản và văn hóa bản địa

VOV.VN - Theo một khảo sát mới đây, 84% người Việt muốn có những trải nghiệm chân thật, mang nét đặc trưng văn hóa của điểm đến. Phần lớn du khách tin rằng nhận thức về bảo tồn di sản và văn hóa bản địa đóng vai trò quan trọng.

Du khách Việt ngày càng yêu di sản và văn hóa bản địa

Du khách Việt ngày càng yêu di sản và văn hóa bản địa

VOV.VN - Theo một khảo sát mới đây, 84% người Việt muốn có những trải nghiệm chân thật, mang nét đặc trưng văn hóa của điểm đến. Phần lớn du khách tin rằng nhận thức về bảo tồn di sản và văn hóa bản địa đóng vai trò quan trọng.

PGS.TS Trần Trọng Dương và giấc mơ đưa di sản đến tương lai
PGS.TS Trần Trọng Dương và giấc mơ đưa di sản đến tương lai

VOV.VN - PGS.TS. Trần Trọng Dương hiện đang công tác tại Viện Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu ứng dụng di sản vào đời sống Sen Heritage với những hoạt động, kết quả đáng ghi nhận.

PGS.TS Trần Trọng Dương và giấc mơ đưa di sản đến tương lai

PGS.TS Trần Trọng Dương và giấc mơ đưa di sản đến tương lai

VOV.VN - PGS.TS. Trần Trọng Dương hiện đang công tác tại Viện Hán Nôm thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu ứng dụng di sản vào đời sống Sen Heritage với những hoạt động, kết quả đáng ghi nhận.

Khai mạc Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” tại Thái Nguyên
Khai mạc Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” tại Thái Nguyên

VOV.VN - Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” lần thứ XII là dịp để Thái Nguyên và các tỉnh vùng Việt Bắc vực dậy ngành du lịch sau thời kỳ “ngủ đông” do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19

Khai mạc Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” tại Thái Nguyên

Khai mạc Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” tại Thái Nguyên

VOV.VN - Chương trình du lịch “Qua miền di sản Việt Bắc” lần thứ XII là dịp để Thái Nguyên và các tỉnh vùng Việt Bắc vực dậy ngành du lịch sau thời kỳ “ngủ đông” do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19