Dân số Việt Nam sẽ chạm mốc 100 triệu người vào năm 2026

VOV.VN - Theo Tổng cục Thống kê: Dân số Việt Nam sẽ đạt 100 triệu người vào năm 2026, quy mô dân số thành thị ngày càng tăng.

Thông tin tại hội thảo cung cấp tin về dân số và phát triển do Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) tổ chức sáng nay (1/12) tại Hà Nội, bà Nguyễn Thị Xuân Mai, Vụ trưởng Vụ Thống kê dân số - Tổng cục Thống kê cho biết: Dân số Việt Nam sẽ đạt 100 triệu người vào năm 2026. Trong đó, quy mô dân số thành thị ngày càng tăng và đạt 63 triệu người vào năm 2049 và dân số nông thôn giảm dần từ năm 2020.

Trẻ em trong độ tuổi tiểu học (từ 5 - 10 tuổi) sẽ vẫn tăng đến năm 2025. Sau năm 2025, dân số độ tuổi này sẽ giảm mạnh đến năm 2034 và giữ ổn định.

Trong vòng 10 năm nữa, Việt Nam sẽ có 100 triệu dân

Đặc biệt, đến năm 2020, Việt Nam sẽ “dư thừa” 1,38 triệu nam giới trong độ tuổi kết hôn. Đến năm 2040, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, lúc này, già hóa dân số và dân số già trở thành vấn đề toàn cầu.

GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội (ĐH Kinh tế quốc dân) cũng khẳng định: “Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đến đến mức nghiêm trọng”. Nếu như tỷ lệ bé em trai/100 bé gái năm 2005 là 106 thì đến năm 2015 đã lên đến 112,8.

Cơ cấu dân số theo tuổi cũng biến đổi nhanh chóng: Tỷ lệ người trên 65 tuổi năm 4,7% thì đến 2015 đã là 7,6% dân số; trong khi đó, tỷ lệ trẻ em từ 0 – 14 tuổi năm 1979 là 42,5% thì đến năm 2015 đã giảm xuống 24%.

GS.Nguyễn Đình Cử thông tin tại hội thảo

Về tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, GS.Nguyễn Đình Cử nhấn mạnh, có sự can thiệp của con người và sự ưa chuộng con trai hơn con gái đang diễn ra rất mạnh mẽ ở Việt Nam. Nguyên nhân xuất phát từ tư tưởng Nho giáo và bất bình đẳng giới đang còn tồn tại trong xã hội.

Bên cạnh đó, tình trạng lạm dụng khoa học kỹ thuật lựa chọn giới tính khi sinh cũng đang âm thầm diễn ra. Thậm chí sách hướng dẫn “sinh con theo ý muốn” được xuất bản và bán công khai ở khắp nơi đã cổ xúy cho tư tưởng “trọng nam khinh nữ.

Theo GS.Nguyễn Đình Cử, việc chuyển trọng tâm từ dân số - kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển là cuộc cách mạng trong chính sách dân số. Toàn xã hội cần ủng hộ và thực hiện hiệu quả chủ trương này để tránh hiểu biết lệch lạc và thái độ không đúng đắn.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Xuân Mai khuyến nghị cần thay đổi nhận thức về “dân số già”: dân số già không phải là “nguy cơ” hoặc “gánh nặng” của xã hội. Cùng với đó, nghiên cứu chính sách hợp lý nhằm ứng phó tình trạng “dư thừa” nam giới trong độ tuổi kết hôn vào những năm 2020./.

Mời quý độc giả theo dõi VOV.VN trên

Tin liên quan

“Quả bom” dân số bức tử giao thông Hà Nội
“Quả bom” dân số bức tử giao thông Hà Nội

VOV.VN - Dân số tại một số quận ở Hà Nội tăng nhanh chóng đã gây áp lực lên giao thông ở nhiều tuyến đường dẫn đến tình trạng tắc nghẽn...

“Quả bom” dân số bức tử giao thông Hà Nội

“Quả bom” dân số bức tử giao thông Hà Nội

VOV.VN - Dân số tại một số quận ở Hà Nội tăng nhanh chóng đã gây áp lực lên giao thông ở nhiều tuyến đường dẫn đến tình trạng tắc nghẽn...

Tăng tuổi nghỉ hưu để ứng phó với già hóa dân số và quỹ hưu trí?
Tăng tuổi nghỉ hưu để ứng phó với già hóa dân số và quỹ hưu trí?

VOV.VN -Theo Bộ Lao động: Đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu nhằm tận dụng cơ hội dân số vàng và đối mặt với già hóa dân số, cũng như nguy cơ vỡ quỹ hưu trí.

Tăng tuổi nghỉ hưu để ứng phó với già hóa dân số và quỹ hưu trí?

Tăng tuổi nghỉ hưu để ứng phó với già hóa dân số và quỹ hưu trí?

VOV.VN -Theo Bộ Lao động: Đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu nhằm tận dụng cơ hội dân số vàng và đối mặt với già hóa dân số, cũng như nguy cơ vỡ quỹ hưu trí.

Khoảng 15% dân số mắc các chứng bệnh tâm thần
Khoảng 15% dân số mắc các chứng bệnh tâm thần

VOV.VN -Tại Việt Nam có 15% dân số mắc 10 bệnh tâm thần thường gặp, trong đó tâm thần phân liệt là 0,47%; trầm cảm 2,8%; rối loạn lo âu 2,6%.

Khoảng 15% dân số mắc các chứng bệnh tâm thần

Khoảng 15% dân số mắc các chứng bệnh tâm thần

VOV.VN -Tại Việt Nam có 15% dân số mắc 10 bệnh tâm thần thường gặp, trong đó tâm thần phân liệt là 0,47%; trầm cảm 2,8%; rối loạn lo âu 2,6%.